Hải Thượng Lãn Ông

Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791)

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 – 1791) người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh ra trong một gia đình mấy đời khoa bảng (ông, cha, chú, bác, anh, em… ) đều học giỏi, đỗ đạt cao và làm quan to trong triều vua Lê – chúa Trịnh. Biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng có lẽ do 2 chữ đầu tiên của tên tỉnh (Hải Dương) và tên phủ (Thượng Hồng) ghép lại nhưng cũng lại có thể do chữ Bầu Thượng là quê mẹ và là nơi Hải Thượng ở lâu nhất (từ năm 26 tuổi cho đến khi mất). Mặc dầu lấy biệt hiệu Lãn Ông, nhưng thực tế chúng ta sẽ thấy “lười” ở đây là lười với công danh, phú quí, nhưng lại rất chăm chỉ đối với sự nghiệp chữa bệnh, cứu người.

Hải thượng lãn ông
Hải thượng lãn ông

Lê Hữu Trác vốn có tên cúng cơm là Huân (薰), biểu tự Cận Như (瑾如), bút hiệu Quế Hiên (桂軒), Thảo Am (草庵), Lãn Ông (懶翁), biệt hiệu cậu Chiêu Bảy (舅招𦉱), sinh ngày 12 tháng 11[1] năm Canh Tí (1720) tại xóm Văn Xá, hương Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Tuy nhiên, cuộc đời ông phần nhiều (đặc biệt là từ năm 26 tuổi đến lúc mất) gắn bó với ở quê mẹ thôn Bàu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Quang Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con thứ bảy của tiến sĩ Lê Hữu Mưu và phu nhân Bùi Thị Thưởng [2].

Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân. Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, “nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình” (Tựa “Tâm lĩnh”). Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự “bẻ tên cởi giáp” theo đuổi chí hướng mới.

hai-thuong-lan-ong

Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân ngũ, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả “trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu” (Lời tựa “Tâm lĩnh”), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt tình chữa khỏi.

Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc “Phùng thị cẩm nang” và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc.

Y học cân bằng âm dương
Y học cân bằng âm dương

Ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu “Hải Thượng Lãn ông”. Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xứ Bầu Thượng quê mẹ. “Lãn ông” nghĩa là “ông lười”, ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó.

Mùa thu năm Bính Tý (1756), Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm vì ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn “từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách” (Tựa “Tâm lĩnh”), vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu.

Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ “Y tôn tâm lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải Thượng Lãn ông.

Ngày 12 tháng 1 năm Cảnh Hưng 43 (1782), ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức yếu lại quyết chí xa lánh công danh, nhưng do theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm mà bộ “Tâm lĩnh” chưa in được, “không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được” (“Thượng kinh ký sự”), ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách. Vì vậy ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh, từ giã gia đình, học trò rời Hương Sơn lên đường.

Hải thượng lãn ông
Hải thượng lãn ông

Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen “hiểu sâu y lý” ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, kết quả để sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi.

Thời gian ở kinh đô, ông nhiều lần xin về thăm cố hương Hải Dương, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông về. Không lâu sau, ông lại có lệnh triệu về kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: “Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được” (“Thượng kinh ký sự”).

Sau khi Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên “khí lực khô kiệt”, khó lòng khỏe được. Do nóng lòng trở về Hương Sơn, nhân có người tiến cử một lương y mới, Lê Hữu Trác liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh, ông rất vui mừng. Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn ông về đến Hương Sơn.

Câu chuyện hay về Hải Thượng Lãn Ông
Dưỡng tâm là đệ nhất
Những tác phẩm ông để lại chắt lọc những tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam. Phép dưỡng sinh của Hải Thượng Lãn Ông có vẻ đơn giản nhưng thực ra là phép dưỡng sinh toàn diện và sâu sắc, đáng tiếc là không được nhiều người đương thời biết đến.

Ông nói:

Đời xưa các bậc thánh tri

Chữa khi chưa bệnh có gì khó khăn

Đau rồi tiếc của thương thân

Khác gì khi loạn thấy cần đúc gươm

(Vệ sinh yếu quyết ca/Hải Thượng Lãn Ông)

Từ một góc độ nào đó, dưỡng sinh có tác dụng phòng bệnh. Phòng bệnh hơn chữa bệnh, đó là đạo lý muôn đời nay.

Phép dưỡng sinh của Hải Thượng Lãn Ông kỳ thực đơn giản mà lại không đơn giản. Đơn giản ở chỗ có thể chỉ gói gọn trong vài câu thơ. Nhưng để tâm lĩnh thần hội và thực hành theo lại là điều không hề đơn giản:

Dưỡng sinh theo phép Chân Nhân

Nhiếp sinh phép có từ xưa

Âm dương thời tiết bốn mùa thuận theo

Tu thân dưỡng tính đôi chiều

Điều hòa thuật số bấy nhiêu phép mà

(Vệ sinh yếu quyết ca/Hải Thượng Lãn Ông)
Đoạn thơ súc tích đã nói lên bí mật của phép dưỡng sinh, đó là tuân theo phép tắc của Đạo gia, của các bậc Chân Nhân: Tu thân dưỡng tính, thuận theo tự nhiên – Âm dương thời tiết bốn mùa và điều hòa theo thuật số – vốn là cương kỷ của phép dưỡng sinh.

Khoa học phát hiện ra kết cấu não bộ của người giống như kết cấu của các tinh hệ. Đạo gia xưa cũng giảng con người là tiểu vũ trụ, do đó cũng phải tuân theo đặc tính tự nhiên của vũ trụ thì mới có thể ‘vận hành’ bình ổn.

Dưỡng tâm đặt lên hàng đầu

Hải Thượng Lãn Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố tinh thần trong phép dưỡng sinh, điều vốn đã chìm vào quên lãng từ bao lâu nay:

Muốn cho chân khí điều hòa

Sửa mình trong sạch hư vô trong lòng

Tinh thần giữ vững ở trong

Bệnh nào xâm được chẳng phòng cũng an

(Vệ sinh yếu quyết ca/Hải Thượng Lãn Ông)

Sách Linh Khu cũng khẳng định: “Một mình tà khí không thể làm hại người ta được, phải là người hư yếu thì tà khí mới ập vào được. Tư tưởng ổn định, yên tĩnh thì tinh khí sẽ cố thủ được ở trong, cho nên hư tà không thể làm hại được”

Hải thượng lãn ông
Hải thượng lãn ông


Tâm chính, tà khí bất xâm!
Khi tâm sạch thanh tịnh, không còn ham muốn đòi hỏi, chẳng tranh chẳng đấu, sống ung dung tự tại thì tự nhiên tà (bệnh tật) sẽ không dám xâm hại, đây cũng chính là trọng điểm dưỡng sinh của Đạo gia. Người làm được như vậy xưa gọi là Chân Nhân:

Noi xưa ăn ở thật thà

Chẳng vì danh lợi bôn ba nhọc lòng

Chí nhân, lòng chẳng muốn tham

Có gì lo sợ tà xâm hại minh

Mọi điều vừa phải thì thôi

Muốn gì cũng được chẳng đòi hỏi hơn

Ăn thường mà vẫn thấy ngon

Mặc gì cũng đẹp vui quen với đời

Chẳng hề tranh cạnh đua đòi

Mọi người chất phác chẳng nài dưới trên

Mắt trông chẳng muốn chẳng thèm

Dâm tà đâu dễ quấy phiền lòng ta

(Vệ sinh yếu quyết ca/Hải Thượng Lãn Ông)

Nếu làm được như vậy thì:

Bất kỳ kẻ khéo người ngu

Ai mà biết giữ chẳng lo sợ gì

Trăm năm động tác chẳng suy

Dưỡng sinh trọn đạo chẳng nguy chút nào

(Vệ sinh yếu quyết ca/Hải Thượng Lãn Ông)

Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Trong vô số những bài thuốc, những kinh nghiệm đúc kết, những lý luận để lại cho đời của Hải Thượng Lãn Ông, có lẽ phép dưỡng sinh là thứ có giá trị hơn cả. Trong đó phép dưỡng tâm được đặt lên hàng thứ nhất, là nét tinh túy nhất trong đạo dưỡng sinh của Đông Y nói riêng và của Đạo gia nói chung.

Chẳng vậy mà:

Lo sầu vì bệnh giàu sang

Vui nghèo khoẻ mạnh hiên ngang trong lòng

Thảnh thơi ở chốn núi rừng

Cuộc đời thanh bạch mà thường sống lâu

Hơn người quyền quý công hầu

Nhàn cư tửu sắc phần nhiều chết non

Mặc dù đạo dẫn, tiên đan

Đâu bằng hai chữ Thanh tâm là cùng

(Vệ sinh yếu quyết ca/Hải Thượng Lãn Ông)

Người xưa vì để tu dưỡng tâm tính, thanh tâm quả dục mà rời xa vòng danh lợi, sống ẩn cư nơi rừng núi bầu bạn với thiên nhiên. Xã hội ngày nay phóng túc dục vọng, ngày càng phức tạp, con người trong xã hội muốn dưỡng tâm, đạt được thanh tâm quả thực khó khăn muôn trùng.

Người ngày nay đủ các loại bệnh, có những bệnh không hề thấy trong xã hội xưa. Tại sao? Nếu theo các danh y xưa, thì ngoài các yếu tố ngoại cảnh như ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm và nước… thì vấn đề ở tự thân là số 1, trong tâm quá nhiều ham muốn, tâm bất an mà sinh bệnh trên thân. Có uống thuốc bổ thế nào, y học hiện đại ra sao cũng không giải được vấn đề này. Yoga, thiền định, khí công chỉ là phương pháp hỗ trợ, thiết yếu nhất chỉ có tịnh tâm cho chính thì mới vượt được khí tà, mới qua được bạo bệnh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *